Mỹ phẩm Hàn Quốc Queenie

Mang lại sự kỳ diệu cho làn da của bạn.

INSULAC-Sữa Mỹ dành cho người Việt

Dòng thực phẩm dinh dưỡng chất lượng cao có xuất xứ 100% từ Hoa Kỳ,phù hợp với mọi lứa tuổi và thể chất của người Việt.

Pubokid Gold

Hỗ trợ điều trị tận gốc chứng táo bón

FOODIZZI

Dịch vụ đặt bàn, gọi món với hàng trăm nhà hàng uy tín nhanh chóng, tiện lợi nhất tại Việt Nam.

Vietravel

Đặt tour du lịch trọn gói tại Việt Nam và Khắp thế Giớ

Chủ Nhật, 27 tháng 1, 2019

TÁC DỤNG LÀM ĐẸP VÀ DƯỠNG SINH CỦA PHẤN HOA.



Đối với con người, các loài hoa muôn màu muôn vẻ không những là đối tượng để chiêm ngưỡng vẻ đẹp mà phấn hoa còn là viên ngọc giúp con người bách niên giai lão.
Trong truyền thống y học nước ta, đã ghi chép nhiều về hiệu quả trị bệnh của phấn hoa. Trong cuốn “Thần nông bản thảo kinh” đa có thuyết luận về việc phấn hoa thiên nhiên có tác dụng đặc biệt đối với việc bảo về sức khỏe và trị bệnh; Do ngày nay con người bắt đầu quay về làm bạn với thiên nhiên, nên giá trị sử dụng của phấn hoa cũng được xã hội coi trọng, và thông dụng trên toàn thế giới.

cong-dung-cua-phan-hoa
Phấn hoa thiên nhiên

Phấn hoa là loại tế bào thực vật mang tính đực do nhị của hoa sinh ra. Là loại thực vật cao cấp để kéo dài tuổi thọ của chính sinh vật đó. Theo nghiên cứu cho thấy, trong phấn hoa chứa rất nhiều thành phần mà cơ thể cần, trong đó hàm lượng nước chứa 12-20%, vật hóa hợp tan trong nước khoảng 25-48%, Anbumin chứa khoảng 20%, Axits Amin có 13 loại, hàm lượng trong đó cao hơn từ 5 đến 7 lần so với trứng gà, thịt bò, Vitamin A, B, E, H có tới hơn 10 loại, ngoài ra còn có các loại dung môi hoạt tính thiên nhiên phong phú, có nguyên tố vi lượng, có yếu tố kháng khuẩn, kháng sinh.
Các chất dinh dưỡng trong phấn hoa nêu trên đối với cơ thể con người có lợi trên nhiều phương diện.

1.      Thúc đẩy sự phát triển của trẻ nhỏ.

Có thể thúc đẩy sự phát triển về sinh lý và trí lực của trẻ. Có khả năng chữa trị bệnh thiếu máu ở trẻ. Theo báo ở viện phòng lao Paris của Pháp, trẻ rm dùng phấn hoa sau 1-2 tháng, lượng hông cầu tăng 25-30%, bạch cầu tăng 15%.

2.      Tăng cường thể lực.

Có thể giải trừ mệt nhọc, đối với những người kiệt sức, là loại thực phẩm bổ sung tốt. Những người bị suy nhược sau khi mắc bệnh, khi mắc mắc bệnh sẽ phục hồi sức khỏe rất nhanh.

3.      Thúc đẩy cơ năng sinh lý

Phấn hoa chứa chất tố kích tuyến tính, đối với những người nam giới yêu sinh lý, liệt dương, có hiệu quả chữa trị nhất định.

4.      Chống lão hóa.


Cong-dung-duong-sinh-cua-phan-hoa
Công dụng chống lão hóa của phấn hoa


Phấn hoa có hợp chất hương thơm, có công hiệu đối với sức mạnh của mao mạch, có thể phòng trị các bệnh xơ cứng động mạch, cao huyết áp, máu tràn màng phổi, phình tĩnh mạch, di chứng sau khi bị trúng gió, bệnh bí đại tiện mãn tính và một số bệnh khác thường gặp ở người già. Có một số bệnh viện dùng mật được làm từ phấn hoa để chữa bệnh xơ cứng động mạch đã đạt được hiệu quả rất tốt.

5.      Điều tiết chức năng tiêu hóa.

Phấn hoa chứa các yếu tố kháng bệnh và kháng khuẩn, có thể tiêu diệt các vi sinh vật có hại, có tác dụng chữa trị đối với bệnh viêm loét ruột, dạ dày, đi tả, viêm ruột, được gọi là “cảnh sát bảo vệ ruột và dạ dày”

6.      Dinh dưỡng làm đẹp da.

tac-dung-duong-sinh-cua-phan-hoa
Công dụng đẹp da của phấn hoa
Người thường xuyên ăn phấn hoa, da mịn non nà, đó là do phấn hoa có thể tẩy sạch độ thô của da, đối với người già và trung niên, được gọi là “sản phẩm hóa trang có thể ăn được”
Ngoài ra, phấn hoa có thể cải thiện các hội chứng ở thời kỳ thay đổi giai đoạn. Theo báo cáo, một bác sĩ phụ khoa ở Áo đã tiến hành điều trị bằng phấn hoa cho tám người phụ nữ độ tuổi 40-50, các triệu chứng được cải thiện rất nhanh chóng. Với bệnh viêm tiền liệt tuyến mãn tính cũng có hiệu quả chữa trị tốt: ở Thụy Điển, người ta đã dùng phấn hoa để chữa trị cho hơn 100 bệnh nhân mắc bệnh tiền liệt tuyến đã đạt kết quả hơn 80%.
Ở nước ta, do mọi người quen ăn mật ong, nên việc ăn trực tiếp phấn hoa chưa được phổ biến. Mật ong là sản phẩm của ong thợ, dinh dưỡng trong nó gần giống như phấn hoa. Điều đáng vui mừng là, mấy năm gần đây, người ta đã khuyến khích ăn phấn hoa.

Theo “Thuật hồi xuân bằng ăn uống bồi bổ” của Lý Kiện Dân

Thứ Ba, 18 tháng 12, 2018

Ăn nhiều đường có tốt không?

1. Đường trong cơ thể.

Đường là thành phần quan trọng trong cơ thể người. Nó chiếm khoảng 2% trọng lượng cơ thể. Đường ở trong cơ thể chủ yếu là đường Glucoda và đường Gluco. Glucoza là hình thức tích trữ đường, có hàm lượng nhiều nhất trong gan và trong cơ, còn Gluco là hình thức đường vận chuyển.

Tinh bột là loại thức ăn chứa nhiều đường nhất, có lúc còn chứa hàm lượng đường disaccarit. Sau khi chúng được tiêu hóa thành mono saccarit, tại phần trên của ruột non, nó được hấp thụ vào máu qua viêm mạc của ruột non, sự hấp thụ đường monosaccarit không phải là sự khuếch tán đơn giản, mà là quá trình chủ động hấp thụ có tiêu hao năng lượng.

Chức năng sinh lý chủ yếu của đường là oxi hóa cung cấp nhiệt năng. Một gam gluco trong cơ thể khi đã oxi hóa hoàn toàn có thể giải phóng năng lượng là 4 kcal. Theo thống kê, trên 70% năng lượng cần thiết cho cơ thể do đường oxi hóa rồi giải phóng ra cung cấp cho cở thể.

Sau khi được hấp thụ vào cơ thể, đường sẽ có 3 xu hướng sau. 
  •  Thứ nhất, vào đường máu và được hấp thụ ngay.
  • Thứ hai, tạm thời tích trữ ở dạng glucoda (đặc biệt trong gan và cơ).
  • Thứ ba, chuyển thành mỡ béo.
Trong tình hình bình thường, đường ngoài sử dụng làm nhiệt năng ra, còn được chuyển hóa thành mỡ béo. Vì vậy ăn quá nhiều đường sẽ bị béo phì do đường trong cơ thể chuyển hóa thành mỡ béo. Những người béo phì mỡ trong máu tăng cao, gây nên các bệnh cơ cứng huyết quản, xơ cứng động mạch vành, cao huyết áp. Đồng thời ăn quá nhiều đường sẽ gây gánh nặng cho tụy, dẫn đến bệnh đái đường, và còn làm giảm vitamin B1. Khi đường trong cơ thể chuyển hóa thành năng lượng cần phải tiêu hao vitamin B1, nên sức hoạt động của thần kinh cơ thể, cơ bắp hạ xuống. Ngoài ra nếu uống quá nhiều đường gluco hoặc glucoda, do các loại đường này đều là đường monosaccarit, nó có thể hấp thụ trực tiếp tại đường ruột, nên ảnh hưởn đến chức năng bài tiết men tiêu hóa, và còn ảnh hưởng đến khả năng tiêu hóa của các loại thực phẩm khác.

2. Hàm lượng đường trong các loại rau.

Rau xanh rất phong phú về chủng loại. Vậy mỗi loại có hàm lượng đường là bao nhiêu? Theo kết quả nghiên cứu của các nhà dinh dưỡng học, hàm lượng đường trong các loại rau là như sau:
  • Hàm lượng đường 1%: Rau thủy sinh.
  • Hàm lượng đường 2%: Cải thìa, cải dầu, rau cần, dưa chuột, cà rốt, bí đao.
  • Hàm lượng đường 3%: Cải trắng, rau dền đỏ, rau chân vịt,, hẹ, mướp đắng, cà chua, cà, hoa cải.
  • Hàm lượng đường 4%: Rau kim hoa, hành ta, giá đỗ.
  • Hàm lượng đường 5%: Rau dền xanh, rau muống, lá tỏi, đậu đỏ, mướp, đậu cove.
  • Hàm lượng đường 6%: Hành tây, rau cải, bí ngô.
  • Hoa quả có hàm lượng đường từ 15% trở xuống: Nho, bưởi, cam, quýt, chanh, táo tây, đào, lê, dâu tây, anh đào, sơn trà, dứa, dưa hấu.

Duong trong rau qua
Chỉ số đường trong rau quả

3. Chức năng của đường cát.

Mọi người kiêng ăn đường vì sợ ăn đường thì béo. Nhưng bạn cần biết đường cát có nhiều tác dụng. Theo nghiên cứu của hội công nghiệp chế biến đường Nhật Bản cho thấy:
  • Trong thịt có nước và protein, nếu tẩm chút đường vào thịt, thịt sẽ càng mềm hơn.
  • Cho đường vào long trắng trứng, nước trong lòng trắng trứng sẽ hấp thụ đường, và có thể đánh lòng trắng trứng thành kem.
  • Cho đường vào nước quả hoặc siro quả có thể tăng thêm vị thơm ngon của đồ uống.
  • Cho chút đường vào gạo, có thể chống được tinh bột lão hóa, hạt cơm sẽ không bị hỏng.
  • Cho chút đường vào bột nở, có tác dụng bổ trợ cho lên men bột mỳ, làm cho bánh mỳ, bánh bao mềm ngon.
  • Cho chút đường vào thức ăn, có thể chống axit hóa mỡ béo, lượng mỡ cúng không bị hao mất.
  • Thức ăn đã cho đường, nấm độc không dễ xâm nhập vào, có thể kéo dài thời gian bị thối rữa.

4. Khi nào ăn đường là thích hợp.

  • Trước lúc tắm: Tắm tiêu hao nhiều năng lượng và mồ hôi, cần phải bổ sung năng lượng và nước, vì vậy ăn chút đường sẽ phòng được hao sức.
  • Trước khi chơi thể thao: Chơi thể thao tiêu hao nhiều nhiệt năng, đường là thức ăn cung cấp nhiệt năng nhanh nhất so với cac loại thức ăn khác.
  • Khi đói bụng mệt mỏi: Đường được hấp thụ vào cơ thể nhanh hơn các loại đồ ăn khác, nên nhanh chóng tăng được đường trong máu.
  • Khi mắc bệnh đường ruột và bệnh thổ tả: Chức năng tiêu hóa của người bệnh không được tốt, mất nước, thiếu dinh dưỡng, ăn chút đường hoặc uống nước đường có cho chút muối, hiệu quả như uống thuốc bổ.
  • Khi chóng mặt buồn nôn: Ăn chút đường có thể tăng cao đường trong máu, tâm trạng ổn định và mau chóng phục hồi trạng thái bình thương.

5. Những bệnh cần hạn chế ăn đường.

5.1. Người mắc bệnh đái đường cần hạn chế ăn đường.

Người mắc bệnh đái đường có thể chia thành 2 loại: thiên về insulin và không thiên về insulin. Loại không thiên về insulin chiếm 80%-90% bệnh nhân đái đường. Song dù là loại nào thì hạn chế ăn đường vẫn là cơ sở chữa trị bệnh.
Nói chung, nhiệt năng cần thiết trên tiêu chuẩn 1 kg trọng lượng cơ thể trong một ngày của bệnh nhân đái đường như sau: Nằm viện hoặc ngoại trú là 25-30 calo, người lao động thể lực nhẹ là 30-35 calo, người lao động thể lực vừa là 35-40 calo, người lao động thể lực nặng là trên 40 calo. Trẻ em, phụ nữ mạng thai, phụ nữ nuôi con, người thiếu dinh dưỡng có thể tăng thêm, người béo có thể giảm bớt.
Ba chất dinh dưỡng trong ăn uống: chất protein đối với người lớn mỗi ngày một người cần 0.8-1,2 g trên 1 kg trọng lượng cơ thể. Trẻ em, phụ nữ mạng thai, người thiếu dinh dưỡng mỗi ngày từ 1,5-2 g trên 1 kg trọng lượng cơ thể. Tỷ lệ giữa đường và mỡ béo là 2/1 hoặc 2,5/1,0. Mỡ béo chiếm 20-30% tổng nhiệt năng là vừa, và chủ yếu dựa vào dầu thực vật. Khuyến khích ăn nhiều thức ăn sợi như rau, ngô, v.v...Lượng thức ăn của 3 bữa sáng, trưa, tối phải phối hợp với nhau. Những người ở điều kiện có thể thì thực hiện ăn nhiều bữa.


Ăn nhiều đường
Ăn đường nhiều

Với hầu hết các bệnh nhân đái đường, thời kỳ đầu thực hiện các chế độ ăn kiêng đường thường có cảm giác đói. Nếu cảm giác đói rõ rệt có thể ăn thêm các loại rau có hàm lượng đường dưới 3% như cải trắng, rau chân vịt, rau cẩn, cà chua, bí đao, dưa chuột, mướp đắng, cà, giá đỗ, nấm tươi...kiên trì trong một thời gian sẽ quen.

5.2. Người cận thị cần hạn chế ăn đường.


Can thi han che duong
Cận thi hạn chế ăn đường

Theo giới thiệu của ủy ban phòng chống cận thị trường học của Nhật Bản: đồ ăn ngọt có thể làm bệnh cận thị phát triển. Vì chất đường trong quá trình trao đổi chất phải tiêu hao một lượng lớn vitamin B1, nếu hấp thụ nhiều đường thì cơ thể sẽ thiếu vitamin B1. Hơn nữa hấp thụ quá nhiều đường sẽ làm giảm canxi trong cơ thể, như vậy sẽ lamg giảm sự đàn hồi của vách nhãn cầu, và bệnh cân thị sẽ nặng lên.
Họ nêu ra: Người cận thị nên hạn chế ăn đồ ngọt một cách hợp lý, thường xuyên ăn thực phẩm có tính kiềm như củ cải, cà rốt, cải trắng, cải bắp, hành tây, dưa chuột, giá đỗ và các loại đồ ăn hải sản như tảo,...và bột gạo, vừng.

5.3. Người mắc bệnh viêm gan cần hạn chế ăn đường.


Nhieu duong hai gan
Bệnh gan hạn chế đường

Lượng đường cơ thể cần chủ yếu lấy từ thức ăn. Trong tình trạng bình thường thì sự cung cấp đó là đủ. Nhưng khi bị mắc bệnh gan, đường gluco trong gan bị giảm bớt, nồng độ đường trong máu không đủ. Vì vậy bổ sung một lượng đường nhất định là càn thiết, song không được quá nhiều. Với người lớn nói chung không được quá 300 g. Sau khi ăn quá nhiều nhiều đường, làm cho dạ dày có cảm giác bão hòa, giảm cảm giác muốn ăn, khiến cho cơ thể không hấp thụ được đường. Đong y cho rằng nếu ăn quá nhiều vị ngọt dễ sinh thấp, nhiệt, mà bản thân can hỏa đã có tính thấp nhiệt. Do đó chữa trị chủ yếu là thanh nhiệt, lợi thấp. Vì vậy những đồ ăn gây thấp nhiệt đều không thích hợp.

6. Tác hại của đường và khẩu hiệu "cai đường" trên thế giới.

Ăn quá nhiều đường rất có hại cho cơ thể. Nó có thể làm cho con người mỏi mòn dần dần. Vì ăn đường qua nhiều thì lượng cholesterol và axit béo glixerin trong máu tăng lên, dễ mắc các bệnh về tim và đái đường. Đường đối về trẻ em còn tác hại hơn. Theo kiểm nghiệm, 6g đường "tiêu hóa" 80 g canxi, tương đương với lượng canxi có trong 1,4 kg sữa bò. Điều này ảnh hưởng lớn đến sự sinh trưởng của trẻ nhỏ. Những trẻ ăn nhiều đường dễ mắc bệnh còi xương. Bộ y tế Trung Quốc đã xác nhận, tác hại của đường đối với cơ thể con người tích tụ dần dần làm cho cơ thể sớm mắc các bệnh đái đường, bệnh vành tim, bệnh béo phì, bệnh xơ cứng động mạch. Ăn quá nhiều đường kính trắng sẽ tăng gánh nặng cho thần kinh não, nên dễ mắc các bệnh về thể xác và tinh thần. Khả năng thẩm thấu của đường kính trắng rất mạnh, có thể phá vỡ trạng thái cân bằng của các loại sinh vật trong cơ thể. Trong sinh hoạt hằng ngày, lượng thức ăn mỗi người tiếp thụ đủ để cung cấp cho số đường cần thiết. Lượng đường vừa đủ là được, nhưng cần phải chú ý, lượng đường qua lớn thì sẽ không có lợi cho cơ thể. Vấn đề lượng đường hấp thụ hằng ngày, một số nhà bác học cho rằng: mỗi ngày cần 5g đường, cũng có nhà bác học chủ trương giới hạn ở 20g.
Tổ chức y tế thế giới đưa ra khẩu hiệu mới mang tính toàn cầu "cai đường". Khẩu hiệu này đưa ra sau khi tổ chức y tế thế giới điều tra nguyên nhân tử vong ở 23 nước.
Mấy chục năm trước, nhu cầu đường ở các nước công nghiệp phát triển tăng vọt. Vì lúc đó lượng dùng đường trắng được coi là một trong những tiêu chí của văn minh. Ngày nay, các nhà khoa học Anh, Mỹ, Nhật đã phát hiện ra rằng tỷ lệ đường ăn trong một nước tỷ lệ thuận với tỷ lệ tiêu thụ đường. Các nhà khoa học đã chứng minh rằng những người ăn thức ăn nhiều đường có tuổi thọ trung bình hấp hơn những người ăn thức ăn thường khoảng 20 năm.




Chủ Nhật, 22 tháng 4, 2018

Vận động giảm béo


Vận động giảm béo


Tiến hành luyện tập thân thể thích hợp là cách hiệu quả nhất để giảm béo. Các tiết mục luyện tập là những hoạt động nhằm rèn luyện sức bền của lực, và có sự trao đổi thay thế oxy. Lượng vận động phải đủ để hô hấp và toát mồ hôi. Mỗi lần luyện tập khoảng 30 -40 phút, mỗi tuần luyện tập 3 -5 lần. Nên chọn các động tác mà mình yêu thích để luyện tấp như đi bộ, chạy, tập thể dục, đạp xe đạp, bơi, nhảy,…không nên tham gia các hoạt động có tính đối kháng kịch liệt (nhất là những người có bệnh mãn tính, càng cần chú ý điểm này).
vận động giảm béo
Vận động giảm béo

Khi bạn đã đạt được số cân lý tưởng, vẫn cần phải thường xuyên luyện tập và có thể tăng số nhiệt lượng hấp thu lên một lượng thích hợp, không cần thiết phải ăn khiêng thêm, duy trì cân bằng tiêu hao năng lượng.

1.Chạy chậm thường xuyên giúp giảm béo

Có một số người cho rằng chạy càng nhanh, cường độ vận động càng mạnh thì hiệu quả giảm béo càng cao. Thật ra không phải như vậy. Bởi vì nguồn cung cấp năng lượng cho cơ thể hoạt động chủ yếu là đường, mỡ, anbumin, khi cơ thể béo phì là do mỡ tích dầy dưới da. Mục đích của việc vận động là làm cho lớp mỡ này tiêu hao đi.
Cho nên phương pháp luyện tập tốt nhất để tiêu mỡ là chạy đường dài với cường độ chầm, kiên trì, trong môi trường được cung cấp đầy đủ oxy, như vậy sẽ làm cho mỡ tích dưới da bị oxy hóa và tiêu đi và sẽ đạt được mục đích giảm béo.



van-dong-giam-beo
Chạy bộ giảm béo

2. Giảm béo bằng phương pháp tắm Sauna.


Sở dĩ gọi tắm Sau-na là chỉ việc tắm nóng lạnh thay nhau. Xông hơi cho nhiệt độ da trong thời gian ngắn đạt đến 38-40 độ C, xong khoảng 5-10 phút sau nhiệt độ sẽ tăng thêm 0,1 độ C, sau đó nhiệt độ của da sẽ giảm dần (nhưng vẫn cao hơn nhiệt độ bình thường 1-2 độ C), tiến hành tắm tiếp bằng nước lạnh, làm cho nhiệt độ da giảm tiếp 4-8 độ nữa, lúc đó nhiệt độ cở thể sẽ trở lại như lúc đầu.

Ở nước ngoài, khi tắm Sauna đều có bộ phận tự động điều khiển nhiệt độ, độ ẩm. Nếu tắm bồn, ngâm mình từ khoảng 5-12 phút, sau đó cũng tiến hành tắm nước lạnh như ở trên, thời gian khoảng 3-12 phút, nghỉ ngơi 15-20 phút, cứ 2 tuần tiến hành nột lần, liên tục 4-5 tháng, như thế có thể kích thích ra mồ hôi, cải thiện quá trình thay thế trao đổi chất, đạt hiệu quả giảm béo.



tắm sauna
Phương pháp Sauna

Việc tắm này kỵ người bị bệnh phổi mãn tính, chức năng tim không hoàn chỉnh, người bị bệnh dộng kinh, phụ nữ ở thời kỳ đổi máu.

3. Thường xuyên cho não hoạt động.

Người béo ngoài việc hạn chế ăn uống, tích cực tham gia thể dục,còn phải cho não hoạt động cũng có thể giảm béo. Theo nghiên cứu, nguyên nhân béo phì là do cơ thể hấp thụ quá nhiều dinh dưỡng mà lượng tiêu thụ quá ít, những dinh dưỡng thừa chuyển hóa thành mỡ đóng dưới da.

Lao động trí não cũng như lao động chân tay, lượng tiêu hao dinh dưỡng trong cơ thể rất khả quan. Nhà tâm lý học của Liên Xô qua những thực nghiệm lớn cho thấy: cường độ lao động của não càng cao, thậm chí tăng cao hơn nhiệt độ bình thường tới 2 độ C trở lên, như thế sẽ tiêu hao một lượng lớn dinh dưỡng trong cở thể.

giảm béo bằng vận động


4. Mùa giảm béo tốt nhất – Mùa đông.

Khí hậu lạnh làm cho người ta ăn nhiều lên, lại lười vận động, dễ làm cho người ta phát phì lên. Sinh vật học hiện đại đã phát hiện: mùa đông và mùa hè cân bằng năng lượng không khác nhau là mấy, nếu như mùa đông tiến hành luyện tập một cách thích hợp sẽ đạt được hiệu quả mà nếu luyện tập trong thời tiết ấm áp không thể đạt được.

Một nhà khoa học Mỹ nghiên cứu phát hiện: ở nhiệt dộ 20 độ C, con người thở một giờ tiêu hao khoảng 8 kilo kalo, nhưng ở nhiệt độ 4 độ C thì lượng tiêu thụ calo tiêu thụ là 16 kilo calo. Các nhà dinh dưỡng học cho rằng: người cần giảm béo ngoài việc phải chú ý luyện tập, bữa tối phải nên ăn ít và thanh đạm. Nếu như thế không những có thể tiêu hao năng lượng thừa mà còn tránh được sự phát phì.


giảm béo mùa đông
Giảm béo mùa đông





Xem thêm: Béo phì, tăng cân - nỗi lo của nhiều người.

Thứ Bảy, 21 tháng 4, 2018

Ăn kiêng giảm béo


Ăn kiêng giảm béo - phương pháp hiệu quả


Ai cũng cho rằng phương pháp giảm béo tốt nhất là ăn kiêng và thường xuyên luyện tập. Làm thế để đạt được mục đích giảm béo có hiệu quả?
Trước hết phải căn cứ vào thể trọng hiện có và trọng lượng chuẩn cần giảm tới để khống chế việc ăn uống. Nếu như mỗi ngày bạn nạp khoảng 2500 kilo calo nhiệt lượng, hiện tại cần giảm 30 pound thể trọng, vậy thì mỗi ngày phải ăn giảm bớt 500 kilo calo nhiệt lượng. Những thức ăn giảm bớt phải là những đồ dầu mỡ giàu Cholesteron, muối và đường. Tức là phải ăn ít thịt mỡ, lòng đỏ trứng gà, sữa nguyên bơ, đồ uống mềm, ăn nhiều hoa quả tươi, rau xanh, ngũ cốc, cá, lòng trắng trứng, sữa tách bơ,...


1. Ăn hoa quả trước khi ăn cơm.

Theo tập quán truyền thống thì người ta thường ăn hoa quả sau khi ăn cơm. Nhưng nếu bạn chuẩn bị giảm béo, thì từ nay trở đi bạn hãy thay đổi thói quen thường lệ, trước khi ăn cơm bạn hãy lấy nước quả ra uống hoặc hoa quả ra ăn.


hoa quả giảm béo
Ăn hoa quả trước bữa ăn

Nếu như trước bữa ăn 30-40 phút bạn ăn hoa quả, hoặc uống một ly nước quả thì việc giảm cân không còn là khó khăn hay khổ sở nữa.

Trước khi ăn mà ăn hoa quả hoặc uống nước quả có thể làm giảm nhu cầu ăn trong bữa cơm, vì trong hoa quả chứa đường Glucoda, làm cho nhu cầu về nhiệt lượng của cơ thể đã đáp ứng đầy đủ. Cho nên trong bữa ăn, nhu cầu về thức ăn sẽ giảm bớt rất nhiều.

Trước bữa ăn uống nước quả hoặc ăn hoa quả, ngoài việc có thể làm giảm nhu cầu ăn uống, còn một công dụng nữa là làm cho người ăn không có nhu cầu ăn đồ mỡ, có thể gián tiếp làm cho quá trình tích tụ mỡ trong cơ thể bị cản trở.


2. Ăn chậm giảm béo

Giảm tốc độ ăn hằng ngày có thể đạt được mục đích giảm béo. Đây là kết luận của một nghiên cứu sinh của một khoa dinh dưỡng Đại học Y khoa Me-li-na, có tên là Trung Thôn Đinh.

Trong nghiên cứu, Trung Thôn Đinh đã lấy một loại thức ăn với số lượng như nhau đem thí nghiệm thì người béo ăn trong vòng 8-10 phút là hết, còn người gầy ăn từ 13-16 phút mới hết. Ông còn kiểm nghiệm số lần nuốt, người nam béo phì chỉ cần 7,7 lần còn người nữ béo phì cần 8,1 lần, mà số lần bình thường cho nam là 8,9 lần còn nữ là 9,4 lần. 

Sau đó ông lại thử nghiệm việc ăn chậm để giảm cân. Sau 19 tuần kết quả cho thấy người nam giảm được 4 kg, qua 20 tuần người nữ giảm 4,5 kg.

Nguyên nhân việc ăn chậm có thể giảm cân là đo: khi thức ăn vào cơ thể con người, đường máu sẽ tăng lên, khi nó tăng đến một độ nhất định nào đó, ở đại nõ sẽ xuất hiện tín hiệu ngừng ăn từ trung khu thực dục, nếu như ăn với tốc đọ nhanh thì thường sẽ ăn rất nhiều thức ăn. Do đó ăn nhanh là một trong những nguyên nhân gây béo phì. Giảm bớt tốc độ ăn, có thể khống chế được lượng thức ăn, do đó sẽ đạt được mục đích giảm béo.


3. Sáu cách ăn uống để giảm béo


Thông thường người ta ăn quá nhiều là do ăn quá nhiều đồ ngọt, béo. Bị béo phì, tăng cân do ăn uống thì cũng phải trị bằng cách ăn uống. Bắt đầu từ việc ăn ít nhai nhiều, ít thịt nhiều rau, ít đường nhiều quả, ít rượu nhiều trà, ít muối nhiều giấm.
     *Ăn ít nhai nhiều: Béo phì là do ăn nhiều mà nên, vì vậy việc ăn ít đi cũng là một cách. Trong cuốn "Thiên kim bản phương" có chép: "Ăn không biết dừng sẽ bị mắc bệnh". Nhưng với những người thích ăn, tự nhiên giảm lượng ăn là không chấp nhận được, nên phải nhai thật lâu. Nhai kỹ không những giúp hấp thụ hết thức ăn, mà còn luyện cơ hàm, giúp làm đẹp cho khuôn mặt bạn.

     * Ít thịt nhiều rau: Trong thịt chứa hàm lượng mỡ cao, nhất là thịt mỡ, chứa 90,8% Lipit nên người béo không được ăn nhiều. Trong "Đông y bảo kiếm" có chép: "Ăn thịt lợn sẽ có thể phát phì". Trong khi đó các loại rau có chứa rất nhiều thành phần dinh dưỡng mà cơ thể cần, lại chứa nhiều nước, xenlulo, sinh nhiệt ít, hàm lượng mỡ thấp, vừa có thể giảm béo, vừa có thể giảm trừ việc ăn quá thừa dinh dưỡng, người cần giảm béo nên ăn nhiều.



Ăn rau giảm béo
Ăn rau giảm béo

       * Ít đường nhiều quả: Đường nhiều dễ chuyển hóa thành mỡ, làm cho bạn phát phì, nhất là sau khi ăn no lại ăn thêm đường càng dễ bị béo phì, Hơn nữa nếu dùng quá nhiều đường trong thời gian dài sẽ kích thích tiết ra nhiều Insulin, và làm cho hệ thống này bị suy nhược dẫn đến mắc bệnh tiểu đường và xơ cứng động mệnh. Ở nước ta có khoảng 30% bệnh nhân bi đái đường.


Nước ép giảm béo
Nước ép giảm béo

Hoa quả tươi hàm lượng nước nhiều, hàm lượng đường ít, mỡ ít và chứa nhiều thành phần dinh dưỡng và vitamin mà cơ thể cần, cao hơn ở các loại rau xanh rất nhiều. Người béo nên ăn nhiều hoa quả tươi. Nhưng táo, chuối, hàm lượng đường hơn 10%, những người béo và người có nguy cơ mắc bệnh đái đường không nên ăn nhiều.

       * Ít rượu nhiều trà: Rượu sinh ra rất niều nhiệt lượng, nhất là bia sinh ra rất nhiều calo, thúc đẩy sự hợp thành của mỡ, gây nên béo phì, người béo không nên uống. Chè được ông tổ ngành y gọi là thức có thể giảm trọng lượng. Theo nghiên cứu hiện đại cho thấy, chè có thể tăng cường hoạt tính của mao huyết quản, tăng độ dàn hồi của huyết quản, cải thiện hệ tuần hoàn máu. Uống trà có thể giảm trọng lượng. Lục tràhồng trà có thể chống lão hóa, chống tia bức xạ, phòng trị bênh xơ cứng động mạch. Để giảm lượng mỡ trong máu dùng hồng trà là tốt nhất, còn để giảm béo dùng lục trà là tốt nhất.



hồng trà giảm mỡ máu
Hồng trà
lục trà giảm béo
Lục trà

      * Ăn lượng ít nhưng ăn nhiều bữa: Người bị bệnh béo phì bữa tối không nên ăn no. Vì bữa tối quá trình thay thế của các thần kinh giao cảm cưỡng chế sự hợp thành của mỡ diễn ra rất dữ dội, nên phải ăn lượng ít nhưng nhiều bữa. Để bụng đói trong thời gian dài, sẽ làm cho khả năng hợp thành của mỡ ở cơ thể con người tăng mạnh, ngược lại khả năng phân giải của mỡ yếu đi rất nhiều. Lượng thức ăn hằng ngày như nhau, nhưng số lượng bữa càng ít, khuynh hướng bị béo phì càng tăng, đồng thời bệnh đái đường, tim mạch cũng tăng thêm tỷ lệ của bệnh.

     * Ít muối nhiều giấm: Ăn nhiều muối sẽ làm tổn thương nội tạng, bị bệnh cao huyết áp, nên ăn ít muối. Nhưng giấm có thể bảo toàn vitamin C không bị phân hủy, có thể khai vị giảm béo, diệt khuẩn, thúc đảy quá trình phân giải trong nước của thức ăn, người béo nên ăn nhiều.

4. Rau xanh giảm béo


Người béo không nên ăn thức ăn có mỡ và đường, tốt nhất nên ăn nhiều rau xanh. Chủng loại rau xanh rất phong phú, vậy nên ăn loại rau nào để đạt hiệu quả giảm béo tốt nhất?

- Giá đỗ chứa hàm lượng nước cao, sau khi cơ thể hấp thụ sinh ra rất ít nhiệt lượng, càng không dễ hình thành mỡ dưới da.



giá đỗ giảm béo
Giá đỗ
- Rau hẹ chứa rất nhiều xenlulo có tác dụng thông đại tiện, có thể tạch sạch các bật chất có hại trong ruột.
- Trong củ cải trắng chứa rất nhiều dầu hạt cải. Chất này có thể thúc đẩy quá trình thay thế của mỡ dưới da.
Bí đao nên ăn thường xuyên, có thể giúp người béo giảm dần dần trọng lượng. Trong "bản thỏa cương mục" Lý Thời Chân có nói: "Thân cây bí cũng có thể nấu ăn, hạt cũng ăn được, quả cũng dùng được". Đời nhà Thanh, trong "Tùy viên thực đơn" có nói về sự tuyệt diệu của việc lấy bí đao làm thức ăn: "Lấy cái mềm phối hợp với cái mềm, lấy cái thanh khiết bỏ vào cái thanh khiết nhưng cần phải thêm "nước sốt gà, sốt nấm". 
Trong "Thực liệu bảo thảo" có viết "người bị nóng ăn rất hợp, người bị lạnh ăn sẽ gầy đi. Ăn vào có thể luyện ngũ tạng, có thể hạ khí, nếu muốn giảm trọng lượng nên ăn thường xuyên, nếu muốn béo lên thì đừng ăn". Cho nên thường xuyên ăn bí đao có thể giảm béo, làm đẹp khuôn mặt, cơ bắp và làn da.


bí đao giảm béo
Bí đao

Tác dụng làm đẹp, giảm béo của bí đao có thể chứng thực thông qua hàm lượng dinh dưỡng của nó. Trong bí đao có Anbumin, đường, vitamin C, B1, B2, canxi, photpho, sắt và các khoáng chất khác, trong bí đao còn chứa một số chất kháng sinh. Nó không chứa mỡ và lượng Natri rất thấp, có tác dụng khống chế việc hấp thụ mỡ. Đồng thời trong bí đao có chứa vitamin nhóm B, có thể thúc đẩy các chất bột và đường chuyển hóa thành năng lượng, giảm bớt việc hình thành mỡ trong cơ thể.

- Đậu phụ đông: giảm béo có rất hiều cách, nếu có thể ăn đậu phụ đông trong một thời gian dài thì hiệu quả sẽ rất tốt. Đậu phụ để đông lạnh, các chất bột, đường, mỡ trong đó bị phân giải, nhưng Anbumin, vitamin và khoáng chất bị phân hủy rất ít. Người béo nếu thường xuyên ăn đậu phụ đông, chẳng những không phải ăn một chút mỡ nào vào người, mà đậu phụ đông còn có thể hấp thụ được mỡ trong ruột, dạ dày và các bộ phận khác trong cơ thể, Đạt được mục đích giảm béo.



5. Hạn chế ăn tối muộn

Người qua tuổi trung niên phát phì, mặc dù có lý do rất phức tạp, nhưng nó có liên quan rất mật thiết đến việc ăn đêm. Theo thử nghiệm cho thấy, nếu con người ăn thức ăn chưá khoảng 200 kg calo vào buổi sáng, sẽ không ảnh hưởng gì mấy đến thể trọng, nhưng nếu ăn vào buổi tối thì thể trọng sẽ tăng rất nhanh. 
Một vị giáo sư y học đã từng nói: “Ăn lúc nào còn quan trọng hơn việc ăn thứ gì rất nhiều!”. Vì quá trình thay thế trao đổi chất ở con người vào buổi chiều diễn ra mạnh mẽ hơn buổi sáng hơn rất nhiều. Tính hưng phấn của thần kinh não vào buổi tối cũng mạnh hơn ban ngày rất nhiều. Tính hưng phấn của thần kinh não lại có thể thúc đẩy quá trình tiết ra chất Insulin, hàm lượng dịch vị tiêu hóa cũng tăng cao, từ đó làm cho khả năng tiêu hóa và hấp thụ dinh dưỡng trong thức ăn tăng lên mạnh mẽ. 


Ăn đêm làm tăng cân
Ăn đêm làm tăng cân

Ăn đêm mà cơm no rượu say, đường máu và Axit amin trong máu, axit béo, tất cả các yếu tố này đều có nồng độ tăng cao, đồng thời buổi sáng vận động ít, năng lượng tiêu hao thấp, nhiệt lượng thừa dưới sự tác động của Insulin sẽ chuyển hóa thành mỡ, do đó sẽ phát phì. Từ đó có thể cho thấy bữa tối của người trung niên ăn đồ ăn thanh đạm, nhiệt lượng nên khống chế ít hơn 30% tổng số nhiệt lượng cả ngày cần hấp thụ. Điều này rất có ý nghĩa với việc phòng chống béo phì.


6. Mười bí quyết trong ăn uống để giảm béo.


*Ăn càng chầm, lượng ăn vào càng ít.

*Mỗi ngày ba bữa, nhất định phải ăn sáng, nếu không sau đó sẽ càng đói.
*Tuyệt đối ăn ít mỡ dầu, những thực phẩm chứa nhiều đường, kiêng rượu.
*Nhất định phải đói mới ăn, không nhất định phải đến bữa là ăn.
*Ngồi ăn không được đứng ăn.
*Thức ăn càng đẹp mắt càng dễ làm cho người ta no.
*Cần nhai đi nhai lại các thức ăn cứng.
*Mỗi tuần giảm được 0,5 - 1kg là tốt. Mỗi ngày ăn thức ăn có nhiệt lượng ít hơn 800 kg calo thì mới có thể cải thiện được quá trình thay thế trao đổi chất, nếu không sẽ càng béo lên.
*Các thực phẩm nên ăn hằng ngày: sữa, sữa chua, cá, bánh mì, rau xanh, hoa quả,…
*Mỗi ngày hãy ghi các thứ đã ăn lại để khống chế lượng ăn vào.




Xem thêm: Béo phì, tăng cân - Nỗi lo của nhiều người

Xem thêm: Vận động giảm béo

Thứ Năm, 19 tháng 4, 2018

Béo phì, tăng cân - Nỗi lo của nhiều người

Béo phì, tăng cân - Nỗi lo của nhiều người


Theo nghiên cứu cho biết hơn 2 tỷ người trên thế giới bị béo phì, thừa cân. Bạn có nằm trong số đó hay không? Có thể bạn đang lo sợ bạn sắp nằm trong số đó. 
Ai cũng muốn mình có một thân hình cân đối, khỏe mạnh. Chẳng ai muốn mình bị béo phì thừa cân cả, một khi bị béo phì, ai cũng muốn nhanh chóng giảm cân, trở lại thân hình mảnh mai như xưa.
Điều đó lại thực sự không dễ dàng như bạn tưởng. Muốn giải quyết vấn đề này, trước tiên bạn phải hiểu nó, hiểu nguồn gốc và nguyên căn của nó. Như vậy bạn mới có thể tự bản thân đưa ra các phương pháp giảm cân phù hợp cho mình.


Vì sao cơ thể nam nữ béo khác nhau?



Không biết bạn có để ý hay không, nam giới bị béo phì thì mỡ tập trung chủ yếu ở phần bụng, còn nữ giới bị béo phì thì mỡ tập trung chủ yếu ở phần eo, mông. Nguyên nhân vì sao vậy? Giáo sư Luis Life thuộc trường Đại học của Mỹ đã chỉ ra bí mật này.


Nữ béo phì
Nữ béo phì

nam béo phì
Nam béo phì















Bệnh béo phì là do hàm lượng tổ chức mỡ quá cao tạo nên. Giáo sư Luis life phát hiện rằng trên mặt tế bào của tổ chức mỡ, có một loại "phân tử X" thúc đẩy việc hấp thụ mỡ đồng thời cũng có "phần tử B" cưỡng chế việc hấp thụ mỡ. Cơ thể của nam và nữ phân bố tổ chức tế bào B tương đối đều, nhưng phần lưng của nam giới lượng tế bào phâm tử B cao hơn nhiều so với nữ giới, đó là nguyên nhân vì sao mà nam giới khi béo phì thường béo phần bụng. Ngược lại, người phụ nữ khi bị béo thì "phân tử B" chủ yếu tập trung ở phần eo trở xuống, cho nên mỡ tập trung ở phần eo trở lêm. Những tổ chức mỡ này giúp người phụ nữ tích lũy năng lượng trong giai đoạn sinh nở, cho nên một cái eo tròn ung ủng thường bị người ta là đã từng làm mẹ.


 Vì sao người béo khó trở lại gầy?



Nghiên cứu cho thấy tính bền vững và sự tăng trưởng nhanh của tế bào mỡ là nguyên nhân căn bản làm cho người béo khó gầy trở lại.
Dưới kính hiển vi điện tử, tế bào mỡ giống như giọt ngọc, màu như màu dầu ngô, kết cấu tinh xảo. Tế bào mỡ phản ứng rất mẫn cảm trong cở thể, nếu chỉ cần phát hiện nó thiếu phân tử đường, nó liền kháng nghị lên đại não, lập tưc xuất hiện cảm giác đói, nôn nao,...đó là biểu hiện mãnh liệt đòi bổ sung đường.

Trong cở thể con người thông thường có 25900 triệu tế bào mỡ, tập hợp thành vùng, không phân bổ đều trên cơ thể, khi số nhiệt lượng được tạo ra nhiều hơn so với số đã bị tổn hao, các tế bào mỡ có thể co giãn to, nhỏ hơn ba lần so với trạng thái ban đầu, nhưng co dần đến một mức độ nhất định nó sẽ tự tách ra để phát triển. Tỷ lệ tăng trưởng của các tế bào mỡ ở từng bộ phận trên cở thể không giống nhau, tốc độ tăng trưởng nhanh nhất gấp 5 lần. Tế bào mỡ không nhưng tăng trưởng nhanh mà còn rất khỏe. Cho nên tế bào mỡ chỉ có tăng không giảm, đó là nguyên nhân vì sao mà những người béo khó trở nên gầy được.


Có bốn loại người dễ phát phì nhất.



Nguyên nhân làm cho cở thể bị béo phì rất phức tạp, trong đó có nguyên nhân chủ yếu là do khi ăn uống nạp vào một lượng nhiệt lượng cao hơn số đã bị mất đi, số nhiệt lượng đó chuyển thành mỡ. Sau đây bốn loại người dễ phát phì:
   * Vận động viên hoặc những người thích hoạt động, nếu ngừng hoạt động trong một thời gian, mà thói quen và lượng ăn không thay đổi, làm cho nhiệt lượng trong cơ thể quá thừa, sẽ làm cho cở thể tăng trọng rất nhanh.
   * Những người ở độ tuổi trung niên cũng rất dễ phát phì. Nguyên nhân là do nhiệt lượng cần tiêu hao giảm, tốc độ trao đổi chất cũng giảm, tốc độ tích lũy mỡ tăng lên.
   * Phụ nữ sau khi sinh nở, tốc độ phát phì là nhanh nhất. Vì sau khi sinh, cảm giác ăn rất ngon miệng, lại thường xuyên có sẵn thức ăn. Nếu không hạn chế việc ăn uống, rất dễ phát phì.
    * Người thường xuyên uống rượu cũng rất dễ phát phì. Nhiệt lượng ở rượu rất cao, cho nên những người hay uống rượu bia, thường có vòng eo rất lớn.

 Ăn quá nhiều dẫn đến béo phì

Nguyên nhân phát phì là do ăn quá nhiều, mà không có lý do chính đáng nào thúc đẩy. Đây là kết luận của một nhóm các nhà khoa học Anh.
Theo báo cáo của các nghiên cứu về y học, tình hình thật đơn giản! Có những người nói họ ăn rất ít nhưng vẫn bị phát phì, chỉ là lý do lấy cớ không đầy đủ.


ăn nhiều béo phì
Ăn quá nhiều dẫn đến béo phì


Các nhà nghiên cứu đã lấy phụ nữ làm đối tượng nghiên cứu, kiểm nghiệm những người béo có trọng lượng quá nặng, họ lý luận là do cơ thể họ tiêu hao ít năng lượng.Nhưng các nhà khoa học lại phát hiện, người béo và người gầy đều tiêu hao năng lượng như nhau. Họ chỉ ra rằng, những người này đã hấp thụ số năng lượng nhiều hơn số cơ thể cần nên mới bị phát phì, chỉ vì họ luôn cho rằng lượng thức ăn mà họ ăn vào còn ít.


Thiếu vitamin nhóm B khi ăn kiêng giảm béo


Có hai nhà khoa học danh tiếng ở Đại học Y khoa Tokyo đã nhiều lần nghiên cứu và phát hiện có một số người do cơ thể quá béo, trong khi ăn kiêng thiếu Vitamin nhóm B - chất có thể làm cho mỡ chuyển hóa thành năng lượng.
Các chuyên gia gia về dinh dưỡng đã nghiên cứu và phát hiện chỉ khi nào năng lượng trong cơ thể được giải phóng thì lượng mỡ mới có thể giảm. Nhưng trong quá trình chuyển hóa năng lượng của cơ thể, lại cần sự tham gia của nhều chất dinh dưỡng, trong đó bao gồm vitamin B6, B12, PP.


thức ăn giảm béo
Vitamin B2 từ thực phẩm

Hằng ngày chúng ta ăn kiêng, nếu thiếu các chất dinh dưỡng này, mỡ trong cơ thể sẽ không thể chuyển hóa thành năng lượng, từ đó, mỡ trong cơ thể cứ tích tụ lại, mới dẫn đến bị phì.


Theo phân tích khoa học cho thấy, thực phẩm giàu vitamin B2 là: gan lợn, gan bò, trứng, sữa, nấm, thịt động vật và các chế phẩm từ đậu. Vitamin B6 chứa rất nhiều trong rau câu, hạnh đào, cá và các loại rau lá xanh. Bình thường ăn nhiều vừng, lạc, đậu, sữa trứng, thịt nạc và gan động vật có thể bổ sung đầy đủ vitamin PP (B3)



thực phẩm giảm béo
Vitamin B6 từ thực phẩm


giảm béo nên ăn
Vitamin PP (B3) từ thực phẩm




Xem thêm: Ăn kiêng giảm béo - Phương pháp hiệu quả



Xem thêm: Vận động giảm béo